Ảnh minh họa
Xuất
phát từ thực tế không muốn phô trương, các tập đoàn khi muốn sở hữu dự
án thường thông qua nhiều hình thức và không "ra mặt".
Bảo Hân
Theo
đà phát triển, quy mô của các doanh nghiệp sẽ tăng dần, hoạt động kinh
tế, tài chính cũng sẽ đa dạng, phức tạp hơn nên cấu trúc của các công ty
cũng thay đổi. Từ một vài công ty con, đến một nhóm công ty rồi cả hệ
thống công ty liên quan, cấu trúc các công ty liên tục thay đổi và hiện
nay, ngày càng có nhiều công ty mang mô hình holdings (công ty mẹ) xuất
hiện trên thị trường.
Cũng
chính vì vậy, việc có thể đánh giá tình hình hoạt động của các công ty
có cấu trúc phức tạp nhìn chung là không đơn giản. Đối với một nhà đầu
tư thông thường, nhận diện báo cáo tài chính vốn đã khó, nếu là báo cáo
tài chính của một công ty holdings nào đó sẽ lại thêm nhiều thách thức.
Từ sở hữu chồng chéo
Xuất
phát từ thực tế không muốn phô trương, các tập đoàn khi muốn sở hữu dự
án thường thông qua nhiều hình thức và không "ra mặt". Chính vì lẽ đó,
các tập đoàn thường lập ra nhiều công ty con với cơ chế sở hữu chồng
chéo không rõ ràng.
Ví
dụ tập đoàn H muốn sở hữu dự án R nhưng không thích phô trương. Tập
đoàn H sẽ lập ra công ty con S1 và S2. Công ty S1 sở hữu 30% dự án R.
Công ty S2 sở hữu 40% dự án R. Như vậy, về mặt hình thức, dự án R được
sở hữu bởi nhiều cổ đông nhưng về mặt pháp lý, tập đoàn H đã sở hữu 70%
dự án R - tức có quyền định đoạt toàn bộ dự án R. Đến đây, chúng ta có
thể nhận thấy việc sở hữu chồng chéo như thế này bắt đầu gây khó khăn
cho nhà đầu tư trong việc định giá doanh nghiệp.
Xét
ở góc độ kế toán thì việc sở hữu như thế này sẽ bóp méo tình hình tài
chính của tập đoàn H. Trường hợp tập đoàn H không thành lập 2 công ty
con S1 và S2 thì sẽ nắm quyền kiểm soát dự án R, khi đó, những khoản nợ
phát sinh từ dự án R sẽ do tập đoàn H gánh chịu và cổ đông chắc chắn
hiểu được vấn đề này hơn.
Nhưng
trong trường hợp tập đoàn H thành lập 2 công ty con S1 và S2, những
khoản nợ phát sinh từ dự án R sẽ được phân bổ cho 2 công ty S1 và S2, và
chắc chắn rằng S1 và S2 không gánh hoàn toàn những khoản nợ phát sinh
từ dự án R.
Trường
hợp 1, tập đoàn H phải ghi nhận các khoản nợ từ dự án R vào báo cáo tài
chính hợp nhất. Như vậy, nếu dự án R không tốt như kỳ vọng thì tình
hình tài chính của tập đoàn sẽ trở nên "bi đát" hơn và nếu muốn duy trì
dự án R, H phải vay thêm nợ và điều này sẽ thể hiện trên báo cáo tài
chính.
Tuy
nhiên, H có thể "lách" bằng cách lập 2 công ty con để sở hữu dự án R và
mỗi công ty đều sở hữu dưới 50%. Như vậy, về mặt kế toán, H không phải
gánh chịu những khoản nợ phát sinh từ R. Điều này gây khó khăn cho kiểm
toán viên khi muốn đưa ra bức tranh thật của doanh nghiệp cho người sử
dụng báo cáo tài chính.
Xét
cho cùng, cách "lách luật" này của tập đoàn H không sai về mặt nguyên
lý kế toán, nhưng bản chất thì không thay đổi. Đứng ở góc độ kế toán,
việc chuyển từ phương pháp hợp nhất báo cáo tài chính sang phương pháp
vốn chủ sở hữu cũng gây không ít nhầm lẫn cho công tác kế toán trong
doanh nghiệp.
Việc
sở hữu chồng chéo còn gây khó khăn cho nhà đầu tư khi đánh giá thực
trạng doanh nghiệp. Đối với những công ty con mà tập đoàn sở hữu chéo,
nếu tập đoàn đã "cố tình" không công bố thông tin đầy đủ thì nhà đầu tư
không thể đánh giá chính xác mức độ kiểm soát của công ty mẹ đối với
từng công ty liên doanh, liên kết mà bản chất có thể là công ty con.
Đến thách thức kiểm soát nội bộ
Việc
tập đoàn H sở hữu nhiều công ty con cũng dẫn đến việc không thể duy trì
cơ chế kiểm soát nội bộ hiệu quả đối với từng công ty con. Điều này
xuất phát từ yếu tố con người. Thành lập càng nhiều công ty con đồng
nghĩa với việc phải tăng cường nguồn nhân lực tương ứng và phải duy trì
được hệ thống kiểm soát nội bộ như ban đầu.
Đây
là vấn đề không dễ thực hiện vì quy mô của công ty mẹ khác công ty con,
yếu tố con người cũng không giống nhau. Ngoài ra, phân tán nguồn lực
cũng khiến doanh nghiệp khó tập trung vào việc củng cố những quy chuẩn
hiện hành đối với toàn bộ hệ thống.
Đứng
ở góc độ kiểm toán, đối diện hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém thì kiểm
toán viên phải thực hiện khối lượng công việc nhiều hơn vì không thể
dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp trong việc giảm thiểu
rủi ro kiểm soát.
Đối
với nhà đầu tư bên ngoài, hệ thống kiểm soát nội bộ không nói lên nhiều
điều. Một phần vì nhà đầu tư không có đủ thông tin để đánh giá, và một
phần vì việc đánh giá này không mang lại nhiều lợi ích do nhà đầu tư
không thể lượng hóa những yếu kém hay những điểm mạnh của hệ thống kiểm
soát nội bộ vào việc định giá công ty.
Tuy
nhiên, như đã nêu ở trên, dưới góc độ kế toán và kiểm toán, hệ thống
kiểm soát nội bộ là cực kỳ quan trọng. Bất kỳ yếu kém nào trong hệ thống
kiểm soát nội bộ cũng tạo gánh nặng lên công việc kế toán và kiểm toán.
Hiện
nay, trên thị trường chứng khoán, chế độ công bố thông tin thường tập
trung vào những thông tin tài chính, ảnh hưởng đến quyết định của nhà
đầu tư. Vì vậy, những thông tin khác thường bị bỏ qua và thông tin về
cấu trúc doanh nghiệp là một trong số thông tin bị bỏ qua đó.
Việc
siết chặt thông tin này góp phần hạn chế cửa "bủa" của doanh nghiệp và
góp phần làm cho công tác kế toán được minh bạch hơn. Đối với những
khoản đầu tư mà bản chất là công ty con, chế độ công bố thông tin nên
quy định rõ doanh nghiệp phải cung cấp đầy đủ thông tin về công ty con
(đặc biệt là thông tin tài chính) cho nhà đầu tư. Như vậy, bức tranh
tổng thể về các tập đoàn sẽ rõ ràng hơn và nhà đầu tư cũng yên tâm phần
nào với các quyết định đầu tư của mình.
(Theo Thời báo kinh doanh)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Mời bạn gửi Nhận xét của mình. Nếu không có tài khoản, bạn vẫn có thể nhận xét bằng cách Chọn hồ sơ là Tên/URL hay Ẩn danh. Tuy nhiên bạn nên chọn Tên/URL với URL có thể để trống. Bạn vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
♦ Các bạn tự chịu trách nhiệm với Nhận xét của mình. Nhận xét để phản hồi, đánh giá, góp ý.... suy nghĩ của bạn. Thông qua Nhận xét hãy để cho mọi người biết Bạn là ai.